Hoàng Kim Phúc và Nguyễn Duy Đông
Gửi tới BBC từ Anh Quốc
BVN
đăng lại bài viết của hai tác giả Hoàng Kim Phúc và Nguyễn Duy Đông như
dưới đây nhưng xin có thêm đôi điều giải thích: Khi GS Nguyễn Huệ Chi
phát biểu trên BBC, ông chưa có trong tay nguyên vẹn bài trả lời báo Tuổi trẻ của GS Ngô Bảo Châu, mà chỉ mới được đọc phần đã đăng trên báo Tuổi trẻ. Ở phần đó, theo GS Nguyễn Huệ Chi, GS Châu định nghĩa về chức năng của trí thức không sai nhưng chưa trọn vẹn
(nguyên văn trong băng ghi âm đã phát), bởi trí thức là những người
được đào tạo và tự đào tạo một cách công phu theo thiên bẩm tất nhiên là
phải trở thành những tài năng đặc biệt; phát huy tài năng ấy để cống
hiến cho nhân loại là một việc tự nhiên mà nghĩa vụ làm người của anh ta
phải làm, và ngay trong việc làm đó, anh đã góp phần phản biện rồi –
phản biện những gì vốn còn mù mờ chưa rõ về tự nhiên và xã hội mà lâu
nay nhiều người chỉ mới nhận thức được đến đấy, nay bằng kiến thức
chuyên sâu, anh đẩy thêm một bước thậm chí lật ngược lại được những định
luận tưởng chừng khó lay chuyển kia. Giải được bài toán Bổ đề cơ bản
Langlands của GS Ngô Bảo Châu là một ví dụ rõ ràng. Tuy nhiên, người trí
thức còn cần thực hiện một chức năng phản biện sát sườn hơn nữa về
những vấn đề bức bối nảy ra trong cộng đồng xã hội mà mình xuất thân và
có liên quan xa gần đến sự tồn vong của cộng đồng. Việc này không phải
chỉ riêng trí thức mới có quyền và có trách nhiệm lên tiếng, nhưng chắc
chắn, thông qua vốn liếng tri thức, nhãn quan rộng rãi của mình, và với
tư cách một loại người ý thức được đầy đủ về lương năng cũng như sự độc
lập, tự do về tư tưởng, người trí thức có điều kiện để đề xuất những
kiến giải sắc sảo hơn người khác, góp phần hiệu quả vào công việc thứ
hai này, thúc đẩy xã hội tiến nhanh hơn, đôi khi gỡ được nhiều tình thế
khó khăn mà người cầm quyền không chịu gỡ hoặc gỡ không ra. Cũng cần
khẳng định, GS Châu đã nhắc nhở không thừa rằng, là một người trí thức
thì không phải bạ gì cũng nói mà chỉ nói những gì mình hiểu biết sâu
sắc, cặn kẽ nhất.
GS
Nguyễn Huệ Chi muốn nói thêm, sau khi đọc nguyên văn bài trả lời phỏng
vẫn trên blog của GS Ngô Bảo Châu, ông thấy phần đã bị tước bỏ là một
phần rất có giá trị, bổ sung và làm hoàn chỉnh ý kiến của GS Ngô Bảo
Châu. Chính với phần bị lược đi đó, GS Ngô Bảo Châu đã thực hiện việc
phản biện với Nhà nước Việt Nam hiện hành trên nhiều phương diện cụ thể
đang là những điểm kẹt chứa đựng nhiều hiểm họa cho đất nước. Và nhất là
đầu đề bài trả lời phỏng vấn của GS Châu “Không ai được độc quyền chân
lý” cũng lại là một phản biện chí lý. Xã hội Việt Nam hiện có nhiều bế
tắc chưa tìm thấy đâu là lối thoát, chung quy trước đến nay cũng do ở
cái nạn coi chân lý là độc quyền của một lớp người nào đấy, và từ chỗ
coi chân lý là một độc quyền đến chỗ tiếm quyền và lạm quyền, cao hơn cả
là xoá bỏ hết mọi quyền hành của người dân: quyền được làm người,
chỉ là một gang tấc. Phải chăng đầu đề bài phỏng vấn là một câu tinh
kết lại tư tưởng của GS Châu mà phóng viên tờ báo vì vô tình – hoặc nhạy
cảm – nên đã bỏ đi?
Bauxite Việt Nam
|
Đầu
năm Thìn, trái mìn Đoàn Văn Vươn đã lật tung những mảng tối của nông
thôn Việt Nam, phơi bày thân phận của người nông dân đồng thời cũng
cảnh báo rằng tình trạng “cướp đất” không giảm mà có thể gia tăng.
Hiện chưa rõ các tranh luận trong giới trí thức lan tỏa bao nhiêu đến người dân
Điều
này xảy ra khi khủng hoảng kinh tế đang làm giảm đi nguồn thu của
các quan chức địa phương từ ngân sách và các dự án ở nông thôn.
Trong khi dư luận đang rất căng thẳng chờ đợi xem cách hành xử của chính quyền trung ương ra sao thì báo Tuổi trẻ Xuân đã đăng tải phát biểu của Giáo sư Ngô Bảo Châu về chức phận của trí thức.
Tưởng
chừng đây cũng chỉ là 'cơn bão trong cốc nước', nhưng ngay lập tức ý
kiến của ông đã nhận được sự phản ứng rất mạnh từ nhiều góc độ khác
nhau, chứng tỏ nhiều mâu thuẫn và ẩn ức xã hội đang đợi chờ, cần giải
quyết.
Nổi bật trong các ý kiến phản biện lại Giáo sư Ngô Bảo Châu, ý kiến của Giáo sư Nguyễn Huệ Chi được nhiều người hưởng ứng.
Cả hai đều đúng
Tuy
nhiên theo thiển nghĩ cá nhân, chúng tôi cho rằng cả hai vị Giáo sư
đều đúng trong hoàn cảnh lịch sử ra đời của tầng lớp trí thức Việt Nam.
Trong
một xã hội độc đảng và chuyên chính như Việt Nam, nền sản xuất hàng hóa
và các thiết chế kinh tế tài chính còn ở trình độ thấp, pháp luật nhiều
khi viết vậy nhưng không hiểu vậy, trí thức bị kiểm soát, xem như “cây
cảnh”.
Vì những lí do cả chủ quan và khách quan
đó, tầng lớp được thụ đắc kiến thức chưa thực sự chứng thực được vị trí
tiên phong của mình qua các sản phẩm cụ thể.
Hoàn
cảnh và vị thế xã hội đó khiến trí thức không biết đâu là ranh giới
giữa sự “cho phép” và nghĩa vụ bắt buộc cũng như sự trông đợi của xã hội
đối với mình.
Trong khi đó, những vấn đề liên
quan tới sự tồn vong của cả đất nước như khai thác bauxite, tranh chấp
Biển Đông với Trung Quốc… lại ầm ầm lao tới, đòi hỏi cả dân tộc gấp
rút thức tỉnh lẫn nhau trước những lẽ sống còn.
Thiết
nghĩ, cách suy tư và hành trình khai khẩn ý thức tự thân của trí thức
mà Giáo sư Nguyễn Huệ Chi và nhiều nhân sỹ khác đang truyền bá là hoàn
toàn khiêm tốn, sáng suốt và đầy ý nghĩa trách nhiệm.
Trở
lại đoạn phỏng vấn Giáo sư Ngô Bảo Châu, phải chăng vì một lý do nào đó
mà Ngô Bảo Châu đã không nói hết ý về “định nghĩa” trí thức mà ông đã
triển khai, nên gây hiểu lầm.
Thực tiễn phát
triển nhân loại đã chứng minh rằng, giới trí thức bên cạnh mớ mũ áo dài
rộng và đống bằng cấp “thịnh soạn” của mình nếu muốn được xã hội tin cậy
tham vấn và tôn vinh thì phải chứng minh mình qua những đóng góp cụ thể
vào sự tiến bộ của xã hội mà đầu tiên là qua vị thế mạnh nhất là thứ
mình đã được đào tạo.
Điều này hoàn toàn không
ngáng trở sự tham gia có ý thức của trí thức vào các hoạt động xã hội mà
còn chứng tỏ những ý kiến phản biện nếu có của họ đối với những vấn đề
xã hội khác là bắt nguồn từ một trí tuệ tường minh.
"Nếu
pháp luật và tri thức quản lý xã hội không bị chà đạp thô bạo thì người
nông dân Đoàn Văn Vươn đã không phải tuyệt vọng phản biện bằng mìn"
Đẩy
vấn đề tới tận cùng, nếu những người lao động trí óc muốn thực hiện
trung thực và hiệu quả công tác chuyên môn của mình chắc chắn họ sẽ phải
va chạm nẩy lửa và tìm cách gỡ bỏ hệ thống quản lý tham nhũng và đầy
bất hợp lí đang tồn tại.
Sự va chạm đó nếu được
khơi dậy, đoàn kết và hỗ trợ bởi luật pháp, nó sẽ là dạng phản biện rất
mạnh và rộng khắp trong tất cả các ngõ ngách xã hội dính tới hoạt động
tri thức.
Khó hình dung là các đề tài khoa học
kỹ thuật được tiến hành qua phương thức “đấu thầu đá lại quả” có thể
mang đến những kết quả tin cậy gì cho xã hội. Đặc biệt, nhân loại không
phân lề thì sao ta có thể thương mại hóa được các sản phẩm khoa học xã
hội chỉ khư khư tay lái phía bên phải?
Để đảm
bảo sự công bằng, xã hội cần ủng hộ giới trí thức tháo gỡ và vượt qua
những kìm hãm của thể chế, thương mại và xã hội hóa các sản phẩm khoa
học của mình trước những thang tiêu chuẩn quốc tế, có như vậy mới tránh
được sự ngộ nhận giá tri ảo được thể chế đặt ra mà không đếm xỉa các giá
trị chung của nhân loại. Chúng tôi hiểu ý kiến của Giáo sư Ngô Bảo Châu
theo cách ở trên.
GS
Ngô Bảo Châu (phải) nổi tiếng sau khi nhận giải Fields nhưng các
phát biểu xã hội của ông gây ra nhiều tranh cãi
Vì
không đồng ý với Giáo sư Ngô Bảo Châu, không ít ý kiến đã thiếu công
bằng cho rằng phát minh của ông là xa vời, ít ý nghĩa đối với một xã hội
còn ở mức thấp như Việt Nam.
Dù rằng 99,9% dân
tộc Việt nam chẳng hiểu cái bổ đề của ông cụ thể ra sao, nhưng chúng ta
nên tin một điều rằng những phát minh lý thuyết đó có thể là vật liệu
tạo ra các chìa khóa để con người tìm ra các dạng năng lượng mới hay mở
đường đến các hành tinh khác trong khi trái đất này đang ngày càng trở
nên kiệt quệ và quá tải ở mức báo động.
Như vậy, nó sẽ vẫn mang giá trị tiền bạc hoặc tinh thần to lớn chừng nào biên giới quốc gia vẫn còn tồn tại.
Phản biện thế nào?
Phân
tích như vậy để thấy rằng hai vị Giáo sư đã đề cập hai thành phần cơ
bản nhất trong hoạt động tri thức của nhân loại mà trí thức Việt nam
trước sau cũng buộc phải hòa vào dòng chảy này. Phải khẳng định hai
thuộc tính này là thống nhất và không mâu thuẫn.
Cái nên bàn thêm không phải là có phản biện hay không mà là phản biện sao cho hiệu quả.
Lấy
ví dụ vụ cướp đất ở Tiên Lãng, trong nhiều năm trước khi xảy ra, anh
Đoàn Văn Vươn đã kiên trì chiến đấu để bảo vệ quyền lợi của gia đình
mình bằng cách “phản biện” lại những quyết định của chính quyền địa
phương dựa trên chính những quyền cơ bản của công dân được pháp luật quy
định và bảo vệ.
"Thể chế chính trị ở Việt Nam
không cho phép những hoạt động phản biện có tính tổ chức chặt chẽ thì
đương nhiên sẽ chịu những hậu quả lớn"
Tuy
nhiên, những phản biện của người nông dân Đoàn Văn Vươn nói riêng cũng
như của rất nhiều những Đoàn Văn Vươn khác trên khắp mảnh đất hình chữ S
nói chung chưa mang lại hiệu quả.
Vụ việc ở
Tiên Lãng cho thấy nếu pháp luật và tri thức quản lý xã hội không bị chà
đạp thô bạo thì người nông dân Đoàn Văn Vươn đã không phải tuyệt vọng
phản biện bằng mìn.
Thực tiễn này còn cho thấy,
những phản biện đơn lẻ trong tình trạng pháp luật bị chà đạp, xã hội vô
cảm thường kết thúc bằng sự tuyệt vọng của người nêu vấn đề.
Mặt
khác, đứng trước các bài toán phức tạp của phát triển đất nước, ở tầm
mức mỗi cá nhân do thông tin, thời gian và năng lực nhiều khi đã không
đủ tạo ra một bức tranh phản biện đầy đủ.
Thường
thường những vấn đề lớn của xã hội cần một tập thể những trí thức ở
những chuyên ngành khác nhau, sử dụng các phương pháp khác nhau để đáp
số chung cho một vấn đề và nhà cầm quyền cần phải tham khảo các đáp số
đó.
Những công trình phản biện công phu tự nó sẽ mang lai giá trị vật chất và uy tín. Hơn nữa, nó tiết kiệm tài nguyên xã hội.
Xã
hội bị thiệt hại nhiều hơn khi thiếu vắng các công trình phản biện có
chất lượng và bỏ ngỏ cho sự tự tung tự tác của các phát biểu vô trách
nhiệm của quan chức, chuyên gia đưa ra những “dự báo” chỉ nhằm lung lạc
hay thỏa mãn mục tiêu chính trị, nhóm lợi ích nhất thời.
Hậu quả của tranh chấp khu nhà và đầm tôm của ông Vươn
Tình
trạng đó dẫn đến sự mất phương hướng và lòng tin của cả xã hội. Nghiễm
nhiên các tin đồn và suy diễn tùy tiện lên ngôi. Cứ nhìn cảnh cả xã hội
tranh nhau mua vàng, đô, xô nhau bán đất, chứng khoán thì sẽ hiểu được
thực trạng này.
Thể chế chính trị ở Việt Nam
không cho phép những hoạt động phản biện có tính tổ chức chặt chẽ, ví dụ
qua việc giải thể Viện IDS, thì đương nhiên sẽ chịu những hậu quả như
vừa đề cập, về lâu dài thiệt hại cho xã hội là rất lớn.
Thệ́
nhưng, điều kiện đủ cho sự hiệu quả và tính tin cậy của các hoạt động
phản biện là sự độc lập về tài chính và tự do trong các hoạt động tư
tưởng. Hoạt động này còn cần một hành lang pháp lý đảm bảo và quan trọng
nhất là ý thức xã hội chấp nhận sự tồn tại của nó trong một triết lý
phát triển hướng tới dân chủ đa nguyên.
Khi đó, phản biện là điều hết sức tự nhiên, rộng rãi và sẽ được xã hội sàng lọc theo chất lượng của chính sản phẩm phản biện.
Quốc
hội cần được quyền chế tài để lắng nghe và bàn thảo về các phản biện
xã hội, điều chắc chắn sẽ giúp hạn chế được nhiều niềm tuyệt vọng đến
từ 70% dân số mang tên Đoàn Văn Vươn.
Bài
viết thể hiện quan điểm của TS Hoàng Kim Phúc, hiện sống tại
Oxford và Thạc sĩ Nguyễn Duy Đông từ Reading, Anh Quốc tham gia
tranh luận về Trí thức Việt Nam.
Nguồn: bbc.co.uk
No comments:
Post a Comment